Các công ty và doanh nghiệp phải công khai việc đóng bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế cho người lao động

Được áp dụng từ 1/1/2019, người sử dụng lao động tức là các công ty và doanh nghiệp bắt buộc phải công khai việc đóng bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội cho người lao động.

Phải công khai BHXH

Tại khoản 3 Điều 63 của Nghị định 149/2018/NĐ-CP Bộ luật Lao động đã quy đinh chi tiết về thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở tại nơi làm việc.

Nghị định 149 này quy định nội dung, nguyên tắc, hình thức thực hiện dân chủ ở cơ sở tại nơi làm việc của.

Đối tượng áp dụng gồm:

Hợp tác xã, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân có thuê mướn, doanh nghiệp và người sử dụng lao động theo hợp đồng lao động;

Người lao động đủ 15 tuổi trở lên, làm việc theo hợp đồng lao động, có khả năng lao động, được trả lương và chịu sự điều hành và quản lý của người sử dụng lao động;

Tổ chức, cơ quan, cá nhân khác liên quan đến việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở tại nơi làm việc theo quy định tại Nghị định.

Đặc biệt nghị định không áp dụng đối với đơn vị sự nghiệp công lập và cơ quan hành chính nhà nước có nhu cầu sử dụng lao động theo hợp đồng lao động.

(Xem thêm tại: https://luatduonggia.vn/tu-van-phap-luat-bao-hiem-xa-hoi-truc-tuyen-mien-phi-qua-dien-thoai/)

Đồng thời nghị định cũng nêu rõ, các công ty và doanh nghiệp, tức là người sử dụng lao động phải công khai bảy nội dung chính. Trong đó có bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, đóng barp hiểm xã hội và thông tin trích nộp kinh phí công đoàn.

Người lao động sẽ được quyết định thỏa thuận sửa đổi, giao kết, bổ sung và chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định của pháp luật; biểu quyết nội dung thương lượng tập thể đã đạt được theo quy định của pháp luật; có thể tham gia hoặc không tham gia đình công theo đúng quy định của pháp luật; các nội dung khác theo quy định của pháp luật.

Trong đó người lao động sẽ được tham gia đóng góp ý kiến về sửa đổi, xây dựng, bổ sung nội quy, quy chế và các văn bản quy định khác của doanh nghiệp trong trường hợp các văn bản này liên quan trực tiếp đến nghĩa vụ, quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động;

Đồng thời người lao động còn được đóng góp ý kiến trong việc sửa đổi, xây dựng và bổ sung bảng lương, thang lương và định mức lao động;

Người lao động được đóng góp ý kiến

Ngoài ra còn có thể đề xuất, thực hiện giải pháp tiết kiệm chi phí, nâng cao năng suất lao động, cải thiện điều kiện làm việc, bảo vệ môi trường, phòng – chống cháy nổ; đề xuất nội dung thương lượng tập thể và các nội dung khác liên quan đến quyền và nghĩa vụ của người lao động theo quy định của pháp luật.

Nội dung người lao động được giám sát và kiểm tra gồm: Việc thực hiện nội quy lao động, các quy chế và các văn bản quy định khác của doanh nghiệp liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động; Việc thực hiện hợp đồng lao động và thỏa ước lao động tập thể; việc trích nộp kinh phí công đoàn, đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp của người sử dụng lao động; việc sử dụng quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi, các quỹ do người lao động đóng góp; việc thực hiện Nghị quyết Hội nghị người lao động; việc thực hiện thi đua, kỷ luật, khen thưởng, giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động.

Đặc biệt nghị định cũng quy định các hình thức thực hiện dân chủ khác, cụ thể như hòm thư góp ý kiến; hệ thống thông tin nội bộ; khiếu nại, kiến nghị, tố cáo theo quy định của pháp luật; một số hình thức khác sẽ do doanh nghiệp quy định trong Quy chế dân chủ ở cơ sở tại nơi làm việc của doanh nghiệp.

Tóm lại người sử dụng lao động phải có trách nhiệm ban hành Quy chế dân chủ ở cơ sở tại nơi làm việc để có thể bảo đảm thực hiện các quy định tại Nghị định này. Đồng thời quy chế dân chủ ở cơ sở tại nơi làm việc bắt buộc phải có sự tham gia đóng góp ý kiến của tổ chức đại diện tập thể lao động tại cơ sở vàđược phổ biến công khai đến người lao động trước khi thực hiện.

>> Xem thêm

Lợi ích tuyệt vời từ việc bài trí những tấm thảm trải nhà

Nhà đầu tư Tiến Phước hé lộ mới tại Nam Sài Gòn